Việt Nam Bia_(kiến_trúc)

Bia cổ của Vương quốc Phù Nam

Bia tại Việt Nam được sử dụng để ghi chữ viết, nhằm lưu lại tư liệu lâu dài tại một địa điểm xác định. Bia đã xuất hiện từ khi người Việt Nam bắt đầu sử dụng chữ viết tiếng Việt. Do điều kiện khí hậu khắc nghiệt và chiến tranh tàn phá thường xuyên trong lịch sử Việt Nam nên hầu hết bia tại Việt Nam sử dụng chất liệu là đá (bao gồm đá trầm tích, đá sa thạch, đá vôi...). Thời trung đại, Bia đá tại miền Bắc và miền Trung, nơi có người Việt định cư từ lâu đời và phát triển một nền văn hóa rực rỡ với văn tự chữ Hán - chữ Nôm đa số mang hai dạng chữ viết này. Cùng với sự mở rộng lãnh thổ về phía Nam của người Việt cổ, các bia đá với chữ Phạn của Vương quốc Chăm Pa cũng trở thành một phần giá trị trong hệ thống di sản bia tại Việt Nam[11].

Các nội dung được khắc trên bia đá thường được chuẩn bị kĩ lưỡng, viết theo các thể thức văn học được quy định rõ ràng và được chạm trổ với kĩ thuật cao và mang tính mỹ thuật. Thể thức văn viết này gọi chung là minh (chữ Hán:銘) nghĩa là "văn khắc lên đồ vật". Vì thế trong tiếng Việt thường sử dụng các cụm từ: bài minh, minh văn hay văn bia để nói đến các nội dung ghi lại trên bia mang tính chất văn học. Các nhà nghiên cứu muốn lưu lại nội dung chính xác của văn bia trên đồ vật, thường dùng mực để in rập lên giấy, gọi là thác bản[12].

Cùng với sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ, nhiều bia đá thời cận đạihiện đại đã sử dụng chữ Quốc ngữ để đông đảo người dân có thể tiếp cận và đọc hiểu. Các bia đá thời hiện đại thường mô phỏng hình thức của bia cổ nhưng sử dụng chữ Quốc ngữ[13].

Phân loại

Bia ma nhai ngự chế của Lê Thái Tổ ở Cao Bằng (Bảo vật quốc gia đợt 8)

Bia tại Việt Nam có một số hình thức cơ bản, có thế phân loại như sau:

  • Bia đá đứng: Đây là hình thức bia phổ biến nhất. Bia có dạng một tấm đá đứng độc lập, tạc từ một khối đá duy nhất, thường có dạng hình hộp chữ nhật, phần đế có thể được điêu khắc thành các hình dạng nhất định, thân bia có thể được trang trí phức tạp như một tác phẩm điêu khắc. Bia được dựng tại các điểm công cộng, nơi thờ tự nhằm ghi thông tin về địa điểm đặt bia.
  • Bia ma nhai (ma nhai thạch khắc - 摩崖石刻): "ma nhai" nghĩa là "mài vào vách núi". Đây là hình thức bia được khắc trực tiếp lên bề mặt vách núi đã mài nhẵn, hình thức đơn giản, thường được làm tại các vùng sơn cước khi không có điều kiện để làm bia đá cầu kì[14].
  • Bia mộ: Đây là loại bia thường đặt ở đầu của phần mộ, nằm trong kết cấu tổng thể ngôi mộ, ghi lại thông tin cá nhân ngắn gọn của người chết được chôn trong mộ địa táng. Bia thường không có nhiều nội dung ngoài thông tin về bản thân chủ ngôi mộ nhưng cũng có khi là những tác phẩm văn học. Đây là loại bia chủ yếu được sản xuất tại Việt Nam ngày nay để phục vụ cho việc mai táng. Với các lăng mộ lớn, thường có một bia riêng ghi về cuộc đời người chôn trong lăng, hoặc sự kiện cộng đồng liên quan đến nhân vật đó, bia này thuộc vào loại bia đá đứng chứ không phải bia mộ

Văn bia Hán Nôm

Bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội)

Từ khi Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc khoảng thế kỉ II TCN cho đến khi vua Bảo Đại thoái vị năm 1945, chữ Hán đóng vai trò gần như tuyệt đối, là chữ viết chính thức của Nhà nước trên lãnh thổ Việt Nam. Trong hơn hai nghìn năm đó, người Việt Nam đã sử dụng chữ Hán và sau đó là chữ Nôm để sáng tác trước thuật, để ghi chép các công văn, tài liệu và khắc trên bia đá, chuông đồng, biển gỗ cùng nhiều loại tư liệu thành văn khác[12]. Vì vậy văn bia Hán Nôm có số lượng rất lớn trở thành một nguồn di sản tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử Việt Nam. Đối với nhiều di tích Việt Nam, minh văn khắc trên bia là tư liệu còn lại duy nhất và rất đáng tin cậy để xác định niên đại cũng như quy mô kiến trúc của những công trình không còn tồn tại hay văn bia còn giúp hình dung về những di sản văn hóa phi vật thể.

Ngay từ thế kỷ XV, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã chú ý đến các loại hình văn khắc như:

Những năm đầu của thế kỷ XX, Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã tổ chức một đợt sưu tập thác bản văn khắc Hán Nôm ở hơn 40 tỉnh trong phạm vi toàn Việt Nam lúc đó. Sau nhiều năm triển khai, kết quả đã thu thập được 11651 đơn vị văn khắc với 20980 mặt thác bản. Từ những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã và đang tổ chức tiến hành điều tra cơ bản và thu thập các văn khắc Hán Nôm hiện có ở các địa phương trong cả nước. Kết quả khối lượng tư liệu văn khắc Hán Nôm đã được thu thập khoảng hơn 30000 mặt thác bản có giá trị để bổ sung mới vào kho văn khắc Hán Nôm mà Viện Viễn đông Bác cổ chưa kịp thu thập[12].

Một số tấm bia giá trị

Chữ khắc trên mặt sau bia Ngự kiến Thiên Mụ tự (bảo vật quốc gia đợt 8) tại chùa Thiên MụNhà bia Khiêm Lăng, Huế với tấm bia cổ chữ Hán lớn nhất Việt Nam

Các văn bia còn sót lại sau hàng trăm năm với rất nhiều biến cố lịch sử, chiến tranh, thiên tai ở Việt Nam là những di sản vật thể giá trị của văn hóa Việt Nam. Hầu hết những tấm bia có giá trị văn hóa, lịch sử tiêu biểu đều đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công nhận là những Bảo vật quốc gia:

  • Bia Võ Cạnh (Bảo vật quốc gia đợt 2) là bia có niên đại ước lượng cổ nhất tìm thấy tại Việt Nam, khắc chữ Phạn.
  • Bia Đào Hoàng (đã vỡ đôi) phát hiện tại Nghè thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh có niên đại ước lượng khoảng năm 314 và năm 450 (hai mặt bia có niên đại khác nhau). Đây được tạm cho là tấm bia chữ Hán cổ nhất tìm thấy tại Việt Nam tính đến năm 2020[15].
  • Bia "Xá Lợi Tháp Minh" (Bảo vật quốc gia đợt 2) là bia khắc chữ Hán có niên đại xác định (năm 601) cổ nhất tìm thấy tại Việt Nam tính đến năm 2012. Trước đó bia chữ Hán cổ nhất tìm thấy là bia Đại Tuỳ Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn (大 隨 九 真 郡 寶 安 道 場 碑 文), được Giáo sư Đào Duy Anh phát hiện ở làng Trường Xuân, xã Đông Minh, huyện Đông Sơn (Thanh Hoá), trên có ghi rõ niên đại dựng bia là ngày 8 tháng 4 năm Mậu Dần, niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14 (tức ngày 7 tháng 5 năm 618 dương lịch)[16].
  • Bia Vĩnh Lăng (Bảo vật quốc gia đợt 2) kích thước rất lớn ở Lam Kinh, do Nguyễn Trãi viết nội dung, chỉ trong 750 chữ tóm lược cả cuộc đời Lê Thái Tổ.
  • Bia Ma nhai của vua Lê Thái Tổ (Bảo vật quốc gia đợt 5 và đợt 8) ở Lai ChâuCao Bằng xác nhận chủ quyền ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
  • Bia điện Nam Giao (Bảo vật quốc gia đợt 4) là một trong những bia lớn và tranh trí đẹp nhất thời Lê Trung Hưng, tư liệu duy nhất mô tả chi tiết về Đàn Nam Giao Thăng Long.
  • 40 bia ma nhai ở Động Kính Chủ (Bảo vật quốc gia đợt 6) là nơi tập trung nhiều bia ma nhai nhất.
  • Về số lượng thì nhóm bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long (Bảo vật quốc gia đợt 3) với tổng cộng là 82 phiến đá lớn dựng trên lưng rùa đá là cụm bia nhiều nhất và lưu giữ tư liệu liên tục lâu nhất trong khoảng ba thế kỉ.
  • Về kích thước, bia Khiêm Cung Ký ở Khiêm Lăng (Bảo vật quốc gia đợt 4) là tấm bia cổ lớn nhất Việt Nam, cao 5 mét.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bia_(kiến_trúc) http://www.unesco.org/new/fileadmin/MULTIMEDIA/HQ/... http://baoquangninh.com.vn/chinh-tri/201504/khanh-... http://tamnong.phutho.gov.vn/Chuyen-muc-tin/Chi-ti... http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=461 http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=2098&Cat... https://books.google.com.au/books?id=2AmspKX3beoC https://archive.org/stream/religioussystem01groogo... https://dantri.com.vn/du-lich/chiem-nguong-bia-da-... https://laodong.vn/van-hoa/chinh-thuc-cong-bo-ban-... https://thanhnien.vn/van-hoa/bao-vat-quoc-gia-ky-1...